Muc luc
Trong ѕerieѕ bài ᴠiết nàу mình ѕẽ hướng dẫn các bạn cách triển khai MVVM trong WPF. Cũng như ѕẽ cố gắng giải thích rõ hơn ᴠề lợi ích khi phát triển ứng dụng bằng mô hình nàу. Các mẫu kiến trúc hơi khác so với các mẫu thiết kế vì phạm vi của chúng rộng hơn nhiều bằng cách giải quyết các vấn đề kỹ thuật hơn như hiệu suất và hạn chế phần cứng và tính sẵn sàng cao. Ví dụ về các mẫu kiến trúc khác nhau là MVC, MVVM và MVP. Nó bao gồm thiết kế kiến trúc cấp thấp và cấp cao, dựa trên các mẫu kiến trúc được chọn và vạch ra các giải pháp có thể sử dụng lại bằng các mẫu thiết kế.
Sự khác biệt đáng kể giữa các mẫu này thể hiện rõ hơn trong cách các mẫu được triển khai. Ưu điểm lớn nhất của MVVM là người dùng có thể thực hiện unit testing dễ dàng do không phải phụ thuộc vào View. Khi test, bạn không cần phải tạo mockup như mô hình MVP mà chỉ cần xác nhận biến observable thích hợp. Lưu ý, trong MVVM, các tầng bên dưới sẽ không biết được thông tin, dữ liệu của tầng bên trên. Điều này giúp đem đến sự tách biệt rõ ràng giữa giao diện người dùng và ứng dụng logic. Là thành phần mà người dùng có thể trực tiếp tương tác, gửi yêu cầu.
Khi Model thực hiện thay đổi, xử lý dữ liệu xong, Presenter lấy dữ liệu từ Model để truyền đến cho View. Data Template là kĩ thuật dùng để tạo ra một khuôn mẫu giao diện. Một template trong WPF xác định cách thức và cấu trúc mà dữ liệu hoặc control sẽ được hiển thị ra màn hình.
Khả năng duy trì khi view có thể gán cả biến và biểu thức, các logic không liên quan sẽ tăng dần theo thời gian, ảnh hưởng đến việc thêm code vào XML. 7 giờ trước Phạm Tấn Phát vừa tham gia khóa học Phát triển ứng dụng trắc nghiệm sử dụng… Đây là nguyên tắc cơ bản của mẫu MVC, đã phát triển các biến thể của các mẫu kiến trúc, như Model-View-Presenter , Model-View-ViewModel , HVELical-Model-View-Controller , và Model-View-Adaptor , v.v.. Các Bộ điều khiển xử lý các hành động quản lý sách (liệt kê, thêm, xem, v.v.). Có thể có nhiều Bộ điều khiển với một chính Bộ điều khiển ‘chỉ đạo giao thông’. Các khung mới hơn, chẳng hạn như Django cho Python và Rails , tập trung mạnh vào việc triển khai nhanh chóng, đó là lý do tại sao MVC chiếm thị phần là điểm thu hút lớn trong các mẫu kiến trúc.
Nó có trách nhiệm phơi bày các phương thức, lệnh, và các properties khác giúp duy trì state của view, vận dụng model như là kết quả của các hành động ở view, và trigger các sự kiện ở chính bản thân view. View có reference đến View-Model nhưng View-Model không có thông tin gì về View. Có mối quan hệ many-to-one giữa View và View-Model nghĩa là nhiều View có thể được map với một View-Model. View là thành phần duy nhất mà người dùng có thể tương tác được trong chương trình, nó chính là thành phần mô tả dữ liệu. Trong WPF, view là mộtUserControl,lưu ý mặc dù View chính làUserControlnhưng không nhất thiết UserControl phải làView.
Nếu một tính năng hiển thị nào đó nằm trên view và là một phần của ViewModel đã được khai báo trước đó, nhưng lại không có ViewModel của riêng nó thì đó đơn thuần chỉ là một UserControl. Phone, Windows RT, Universal Apps,… Lợi ích của mô hình này là mang lại sự tách biệt về thiết kế giao diện và lập trình logic không phụ thuộc nhau. View hiển thị các thành phần giao diện người dùng như CSS, jQuery hay HTML…View hiển thị dữ liệu được nhận về từ controller như là đầu ra. Đây cũng là nơi thay đổi dữ liệu của Model do người dùng nhập vào. Tôi nhận ra đó là một phần của vấn đề tôn giáo, nhưng tôi đã bắt đầu với MVVM trong WPF bằng cách sử dụng Cinch trở lại .. Kể từ đó, tôi đã chuyển sang Caliburn.Micro và Angular và vẫn yêu thích nó – rõ ràng, có rất nhiều thiếu sót trong MVVM như bạn đã nói (đáng chú ý là không có cách nào để thực hiện các hộp thoại).
Có nhiều mẫu thiết kế khác nhau và MVC và MVVM là hai trong số đó. Ở đây, MVC là một mô hình thiết kế ứng dụng bao gồm ba phần được kết nối với nhau. Tuy nhiên, mặt khác, MVVM là một mô hình giúp thiết kế các ứng dụng UP và trang đơn phong phú.
Những nội dung trong bài này được tổng hợp lại từ 2 bài viết trên codeproject (xem thêm tại phần tham khảo). Việc triển khai MVVM cho project thực sự đơn giản hơn nhiều so với những gì mà người ta tưởng tưởng về nó. Nói riêng về Data Template, chức năng này giúp cho dữ liệu (thuộc dạng non-visual) được gắn vào một cấu trúc bao gồm một hoặc nhiều thành phần có khả năng hiển thị.
Hình ảnh dưới đây sẽ mô tả về mối quan hệ giữa các thành phần trong pattern này. Đầu tư, giao dịch tài chính ẩn chứa nhiều rủi do và không phải ai cũng phù hợp. Tất cả những chia sẻ của mình là theo quan điểm cá nhân, mục đích chia sẻ kiến thức.
Làm Thế Nào Để Viết Một Phản Hồi Đọc
MVVM không bị lỗi thời, nhưng nó đã bị chơi quá nhiều để bắt đầu. Tôi không bao giờ thích nó và nó giữ tôi trong WinForms quá lâu; Không thấy rừng cây, tôi ném em bé ra ngoài bằng nước tắm. Hình minh họa ѕau đâу cho thấу ba lớp MVVM ᴠà ѕự tương tác của chúng.
- Mô hình MVVM hỗ trợ two-way data binding giữa View và View-Model.
- View có reference đến View-Model nhưng View-Model không có thông tin gì về View.
- Có thể có nhiều Bộ điều khiển với một chính Bộ điều khiển ‘chỉ đạo giao thông’.
- Đoạn đó không liên quan đến Hỏi & Đáp này; Dax rõ ràng đã “chuyển” từ WPF sang lập trình web.
Đôi khi label đó sẽ có nội dung do ViewModel quy định (bởi vì bạn cần thay đổi nội dung của label tùy theo sự kiện xảy ra), hay có khi designer sẽ quyết định label sẽ hiển thị như thế nào. Nói chung, nếu nó không phụ thuộc vào cơ sở dữ liệu thì nó sẽ thuộc về thẩm quyền của designer – tức là được định nghĩa trong View chứ không phải ViewModel. Nó chứa các mã lệnh cần thiết để thực hiện data binding, command. Trước khi tìm hiểu về mô hình MVVM này, ta cùng điểm qua một số tính năng mới trong xu hướng phát triển ứng dụng hiện nay. Đối với dự án nhỏ việc áp dụng mô hình MVVM gây cồng kềnh, tốn thời gian trong quá trình phát triển. Tốn thời gian trung chuyển dữ liệu của các thành phần.
Sự Khác Biệt Giữa Mvvm Và Mvp
Các lớp mô hình thường cung cấp xác thực dữ liệu và báo cáo lỗi thông qua IDataErrorInfo hoặc INotifyDataErrorInfointerfaces. View model có thể định nghĩa các trạng thái logic mà view thể hiện trực quan cho người dùng. Đây là lớp trung gian giữa View và Model và xem như thành phần thay thế cho Controller trong mô hình MVC. MVP có cấu trúc code rõ ràng hơn so với MVC nên khá dễ hiểu và dễ dùng. Binding Data trong MVVM là điều không bắt buộc, một số implement chỉ đơn giản làm ViewModel như một lớp trung gian giữa Model-View, lớp này giữ nhiệm vụ format data hoặc mapping trạng thái của View.
Trong mô hình MVVM, các điều khiển như Button, ListView, SearchBar, v.v. Không thể kết buộc trực tiếp đến dữ liệu mà phải thông qua thuộc tính Command – là một thuộc tính kiểu ICommand. Tính linh hoạt – Controller liên quan khá chặt chẽ với các view. Nếu chúng ta thay đổi view chúng ta sẽ phải thay đổi lại ở controller. Các Lượt xem nhận dữ liệu từ ViewModel (thông qua liên kết dữ liệu và phương thức) và tại thời gian chạy, Lượt xem sẽ thay đổi khi phản hồi các sự kiện trong ViewModel. Các Mô hình xử lý dữ liệu và logic kinh doanh và có Không phụ thuộc giữa Mô hình và Bộ điều khiển hoặc là Lượt xem.
Nó là một mẫu được thiết kế riêng cho WPF và các nền tảng XAML khác. Presenter có trách nhiệm quản lý tất cả các sự kiện từ giao diện thay cho View. Nó nhận input từ người dùng thông qua View, sau đó xử lý dữ liệu thông qua Model. View và Presenter được hoàn toàn chia tách không giống View và Controller, mỗi khi có giao tiếp giữa 2 thành phần này bằng một interface. Presenter cũng không nhận các request vào giống Controller. Sau khi nhìn vào MVC và MVP các mẫu, điểm chung là cả hai đều có trách nhiệm riêng cho từng thành phần và chúng thúc đẩy sự tách biệt giữa Lượt xem và Mô hình (dữ liệu).
MFC, phát hành năm 1992, tiếp tục nhận được các bản sửa lỗi với mỗi gói phát hành / dịch vụ của Visual Studio. Tất cả quá nhiều cho đến khi bạn quyết định chuyển ứng dụng máy tính để bàn của mình lên web và tất cả những gì bạn có là một tấn mã – đằng sau tất cả được gắn với các điều khiển WPF. WPF là một hệ thống của Microsoft kết xuất giao diện người dùng trong các chương trình dựa trên Windows và được phát hành lần đầu tiên trong .NET Framework 3.0. Các Người trình bày phản ứng với những sự kiện này bằng cách đọc và cập nhật Mô hình để thay đổi Lượt xem và do đó, Người thuyết trình trách nhiệm là ràng buộc Mô hình và Lượt xem.
MVC chia ứng dụng thành mô hình, khung nhìn và bộ điều khiển. Mô hình đại diện cho dữ liệu và chế độ xem đại diện cho giao diện người dùng, trong khi bộ điều khiển xử lý các yêu cầu. Ngược lại, MVVM chia ứng dụng thành mô hình, khung nhìn và khung nhìn. Mô hình đại diện cho các thực thể hoặc các đối tượng miền. Khung nhìn thể hiện lớp Giao diện người dùng trong khi khung nhìn mô tả sự ràng buộc giữa khung nhìn và mô hình.
Kể từ khi Microsoft cho ra mắt hai nền tảng phát triển ứng dụng mới đó là WPF và Silverlight. Trên nên tảng đó đã có nhiều thay đổi trong việc xử lý sự kiện và binding dữ liệu, giữa các tầng của ứng dụng với nhau. Vì vậy, nảy sinh ra nhu cầu phải có một mô hình phát triển ứng dụng mới phù hợp hơn.
Nó chuyển đổi các đối tượng dữ liệu từ mô hình theo cách mà các đối tượng dễ dàng được quản lý và trình bày. Data Binding là kĩ thuật dùng để tạo gắn kết giữa phần giao diện và dữ liệu thông qua phần business logic. Nhờ Data Binding, UI có thể tự động cập nhật lại để hiển thị các thay đổi trong dữ liệu.
Cần có nhiều người lập trình để tiến hành lập trình song song. Kiến trúc MVC có mối quan hệ “một đến nhiều” giữa Controller & View trong khi trong kiến trúc MVVC, mối quan hệ “một đến nhiều” giữa View & View Model. Trong MVC, controller là điểm vào Ứng dụng, trong khi trong MVVM, view là điểm vào Ứng dụng. Tăng về số lượng code nhưng MVVM cho một sự trao đổi xứng đáng vì nó đem lại sự giảm thiểu độ phức tạp code. Theo thời gian, Controller sẽ trở nên khó kiểm soát vì càng ngày càng có nhiều code được viết thêm vào. Dễ dàng trong việc phân tách các phần Model và View.
Mvvm Là Gì
Bạn cũng có thể tận dụng các tính năng hiện có được cung cấp bởi ASP.NET, Django, JSP, v.v. Bạn nên dùng MVP nếu không thể binding dữ liệu qua DataContext (ví dụ như Windows Forms). Cũng giống như MVC, Model bao gồm các lớp mô tả business logic, định nghĩa business rules cho dữ liệu. Do đó, khi thay đổi ở View thì đồng nghĩa bạn sẽ phải thay đổi ở Controller.
Màn hình là Chế độ xem, dữ liệu mà nó hiển thị là Kiểu và Người thuyết trình nối hai cái lại với nhau. Với các dự án nhỏ, mô hình này khá cồng kềnh và tốn nhiều thời gian trong việc trung chuyển dữ liệu. Nếu bạn đang băn khoăn giữa MVP và MVVM, thì tuỳ theo thói quen cá nhân để quyết định, thực hành mỗi mô hình sẽ giúp bạn hiểu lợi ích và cách cân bằng giữa các mô hình. Mô hình MVVM sẽ phân bố source code thành 3 phần, mỗi thành phần có một nhiệm vụ riêng biệt và độc lập với các thành phần khác. Có thể kiểm tra, phát hiện lỗi phần mềm một cách dễ dàng. Một command binding cho phép bạn tùy ý xác định các phương thức xử lý, phím tắt hoặc thao tác chuột để kích hoạt.
Nhược Điểm
Tuy nhiên cách này theo mình khiến cho ViewModel trở thành Presenter và đưa kiến trúc này về MVP. Việc liên kết dữ liệu cho tất cả các thành phần gây khó khăn trong việc debug khi cơ sở dữ liệu phức tạp. Cũng đáng lưu ý rằng MS hỗ trợ công nghệ nhà phát triển của họ mãi mãi.
Ngoài ra, Data Binding trong WPF còn hỗ trợ các chiều khác nhau, nghĩa là các thay đổi có thể cập nhật từ UI vào dữ liệu. Kĩ thuật binding trong mô hình mvvm thực sự là một bước tiến mới, thỏa mãn những điều mà hầu hết lập trình viên mong đợi. MVVM, đó là Chế độ xem mô hình mbachulski.comewModel, là một cách có trật tự và có thể tái sử dụng để tổ chức mã. Các thành phần chính của MVVM là model, mbachulski.comewmodel và mbachulski.comew. Thứ hai, mbachulski.comewmodel hoạt động như liên kết hoặc kết nối giữa mô hình và khung nhìn.
Lịch Sử Phát Triển
Chuyên gia SEO và yêu thích lập trình Website, đặc biệt với nền tảng WordPress. Đây là nơi cho phép người dùng tương tác, đưa ra yêu cầu. Sự khác biệt giữa các đối tượng, từ và thuật ngữ tương tự. So sánh mọi thứ, thiết bị, xe hơi, thuật ngữ, con người và mọi thứ khác tồn tại trên thế giới này.
Trong MVP, có một ánh xạ một-một giữa Lượt xem và Người trình bày, ở đâu trong MVVM, mối quan hệ là một-nhiều giữa Lượt xem và ViewModel. Cuối cùng, khác nhau Lượt xem sẽ được yêu cầu, như khi thêm sách vào giỏ hàng trực tuyến hoặc khi xem chi tiết sách có hình ảnh và đánh giá. Mọi hình thức sao chép nội dung đều vi phạm và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Do vậy Model – View – ViewModel pattern ra đời và ngày càng trở nên phổ biến, phát triển hơn. Hơn nữa, sửa đổi không ảnh hưởng đến toàn bộ ứng dụng. Nó cũng cung cấp các thành phần hoạt động độc lập và mbachulski.comệc thực hiện bên trong có thể được thay đổi mà không ảnh hưởng đến các thành phần khác. Nhìn chung, MVC là một mẫu hữu ích khi phát triển các ứng dụng phức tạp cấp doanh nghiệp.
Chúng ta thấy khả năng sử dụng lại trên các công nghệ UI khác nhau thực tế là không thể, vì code UI behind bị ràng buộc rất nhiều với công nghệ UI. Khi gán biến và biểu thức vào View, các logic rải rác sẽ tăng dần theo thời gian. Điều này khiến việc kiểm soát và thêm code dần trở nên khó khăn hơn. Giống như mô hình MVP và MVC, Model trong MVVM là bộ phận đại diện cho các tầng business logic, định nghĩa business rules cho dữ liệu. MVVM (Model – View – ViewModel) là mô hình hỗ trợ two-way data binding (ràng buộc dữ liệu) giữa View và ViewModel. Nhược điểm lớn nhất của mô hình MVP là theo thời gian, Presenter sẽ dần lớn lên do bị thêm các business logic rải rác.
Nó cải thiện sự phân tách mối quan tâm vì nó chia ứng dụng thành nhiều đơn vị. Do đó, mbachulski.comệc sửa đổi sẽ dễ dàng hơn mà không ảnh hưởng đến toàn bộ dự án. Trách nhiệm của Mô hình là cung cấp thông tin đó, sử dụng bất kỳ logic nào đã được áp dụng (sử dụng bộ lọc tìm kiếm). Nó cũng cung cấp các thành phần hoạt động độc lập và việc thực hiện bên trong có thể được thay đổi mà không ảnh hưởng đến các thành phần khác. Do đó, việc sửa đổi sẽ dễ dàng hơn mà không ảnh hưởng đến toàn bộ dự án.
Đồng thời Model cũng chứa các lớp mô tả business logic và định nghĩa business rules cho dữ liệu (cách mà dữ liệu sẽ được thay đổi và sử dụng). ViewModel không hề biết gì về View, một ViewModel có thể được sử dụng cho nhiều View (one-to-many). ViewModel sử dụng Observer design pattern để liên lạc với View (thường được gọi là binding data, có thể là 1 chiều hoặc 2 chiều tùy nhu cầu ứng dụng). Chính đặc điểm này MVVM thường được phối hợp với các thư viện hỗ trợ Reactive Programming hay Event/Data Stream, đây là triết lý lập trình hiện đại và hiệu quả phát triển rất mạnh trong những năm gần đây. MVC, MVP, và MVVM là 3 mô hình thông dụng khi phát triển phần mềm. Trong bài viết này, mình sẽ giới thiệu với các bạn 3 mô hình Model View Controller , Model View Presenter và Model View View-model .
Các dự án đã được mình khảo sát kĩ lưỡng và đây không phải là một lời khuyên đầu tư. Bạn nên dùng MVP nếu không thể binding dữ liệu qua DataContext (ví dụ như với Windows Forms). Nó sẽ trở lên rườm rà khi ta xây dựng với các ứng dụng nhỏ, hoặc với các Activity đơn giản. Mô hình MVP theo thời gian, Presenter sẽ dần lớn lên do bị thêm các business logic rải rác.
Và do đó, dữ liệu sẽ được hiển thị lên cửa sổ một cách trực quan theo ý muốn của lập trình viên. Cũng như Data Binding, tính năng này không yêu cầu bạn phải biết trong code-behind của ứng dụng. Và mỗi file giao diện đều có class code-behind đi kèm.
Một khung nhìn yêu cầu Mô hình cung cấp thông tin để nó phản đối đầu ra cho người dùng. Trong cấu trúc MVP, presenter thao túng model và cập nhật ở view. View và Presenter tách biệt với nhau hoàn toàn và giao tiếp với nhau qua thông qua interface. Vì nếu tách riêng từng phần ở view sẽ dễ dàng cho việc kiểm thử ứng dụng ở MVP hơn so với mô hình MVC. Tuy nhiên, chúng ta không muốn View lại biết và thao tác trực tiếp với các thông tin của Model (trong trường hợp này là class Customer).
Người dùng sẽ rất khó để kiểm soát và chia nhỏ code khi Presenter đã quá lớn. Bộ phận này sẽ nhận input của người dùng thông qua View, xử lý dữ liệu với sự giúp sức của Model và cuối cùng trả kết quả lại cho View. Presenter và View giao tiếp với nhau thông qua interface. Chắc chắn sẽ dễ dàng test model vì nó không liên quan đến view và view không có gì nhiều để test . Chúng ta dễ dàng viết unit test cho presenter vì nó không gắn với bất cứ view, nó hoạt động độc lập với View và không gắn với bất cứ API nào của Android. Model là các đối tượng giúp truy xuất và thao tác trên dữ liệu thực sự.